Những đứa con của nửa đêm
Phan_4
“Tôi không thể ra đi mà bỏ em lại” Aziz bảo Naseem. Ghani nói, “Bày đặt thế đủ rồi! Khỏi cần tấm vải dớ dẩn này nữa! Bỏ xuống, mấy mụ này, đây giờ đã là đôi uyên ương mới rồi!”
“Cuối cùng,” Aadam Aziz nói, “cuối cùng tôi cũng được thấy em trọn vẹn. Nhưng tôi phải đi đã. Đi thăm bệnh... một người bạn cũ đang ở nhà tôi, tôi phải cho cô ấy biết, cô ấy sẽ rất mừng cho cả hai ta. Một người bạn thân từ Đức.”
“Không, Aadam baba,” người hầu nói, “từ sáng sớm tôi đã không thấy Ilse Begum[1]. Cô thuê lão Tai chở đi một chuyến shikara.”
[1] Tiếng xưng hô tôn trọng dành cho phụ nữ (cô, bà, phu nhân).
“Biết nói gì đây, thưa cậu?” Tai thẽ thọt. “Tôi rất vinh dự được triệu đến tư gia một bậc rất mực tôn quý như cậu đây. Thưa cậu, tiểu thư thuê tôi chở đi một chuyến ra Vườn Mughal, nhân lúc hồ chưa đóng băng. Cô rất lặng lẽ, thưa Bác sĩ Sahib, cả buổi chả nghe cô nói câu gì. Đâm tôi cũng mải nghĩ ba chuyện riêng tư dớ dẩn của mấy lão già lẩm cẩm. Bỗng nhiên lúc tôi nhìn lại thì cô đã không còn trên ghế. Thưa Sahib, tôi thề trên đầu vợ mình, không thể nhìn thấy gì đằng trước lưng ghế, làm sao tôi biết được? Xin cậu tin lão chèo đò khốn khổ từng là bạn của cậu ngày cậu còn nhỏ...”
“Aadam baba,” người hầu già xen vào, “xin cậu thứ lỗi nhưng tôi vừa tìm thấy tờ giấy này trên bàn tiểu thư.”
“Tôi biết cô ấy ở đâu,” Bác sĩ Aziz nhìn Tai trân trối. “Tôi không biết tại sao bác vẫn dính dáng đến cuộc sống của tôi, nhưng bác từng chỉ chỗ đó cho tôi một lần. Bác bảo: có những phụ nữ ngoại quốc đến đây để chết đuối.”
“Tôi ư, Sahib?” Tai ngỡ ngàng, hôi thối, ngây thơ. “Cậu đau lòng quá đâm nghĩ quẩn rồi! Mấy chuyện ấy làm sao tôi biết được?”
Và sau khi cái xác, trương phềnh, quấn đầy rong rêu, được một nhóm mấy người lái đò mặt mày vô cảm dùng lưới vét vớt lên, Tai đến chỗ neo thuyền và bảo những người có mặt, khi họ rúm lại trước hơi thở của một con bò thiến mắc bệnh lỵ từ lão phả ra, “Hắn đổ tội cho ta, chỉ toàn tưởng tượng! Đem mấy ả gái Âu lang chạ về đây rồi nói chúng nhảy xuống hồ là lỗi của ta!... Ta hỏi, làm sao hắn biết đúng chỗ mà tìm? Phải, hỏi hắn xem, hỏi thằng nakkoo Aziz ấy!”
Cô để lại một lời nhắn. Nó viết: “Mình không cố ý.”
Tôi không bình luận gì; những sự kiện này, dù thế nào đi nữa, cũng đã tuôn ra từ miệng tôi, bị sự vội vã và xúc cảm làm biến dạng, là để người khác phán xét. Bây giờ tôi xin đi vào chủ để chính, và kể rằng trong mùa đông dài, khắc nghiệt năm 1918-19, Tai đổ ốm, mắc một dạng bệnh da liễu ác hiểm, na ná thứ ôn dịch châu Âu gọi là Tai ách Vua ban[2]; nhưng lão nhất định không đến Bác sĩ Aziz, và được một thầy lang vi lượng đồng căn trong vùng chữa trị. Tháng Ba, khi hồ tan băng, đám cưới diễn ra ở ngôi lều lớn trong khuôn viên nhà lão Ghani chúa đất. Khế ước hôn nhân đảm bảo cho Aadam Aziz một món tiền đáng kể, giúp anh mua một căn nhà ở Agra; còn của hồi môn, theo nguyện vọng đặc biệt của Bác sĩ Aziz, gồm cả một tấm ga giường khoét lỗ. Đôi uyên ương mới ngồi trên bục, đeo đầy hoa và rét run, trong khi khách khứa lũ lượt diễu qua và rắc tiền vào lòng họ. Đêm đó ông tôi trải tấm vải khoét lỗ dưới cô dâu và mình, tới khi trời sáng nó được tô điểm bởi ba giọt máu, tạo thành một hình tam giác nhỏ. Khi trời sáng tấm vải được đem ra trưng, và sau lễ hợp cẩn một chiếc xe do lão chúa đất thuê đến để đưa ông bà tôi tới Amritsar, ở đó họ sẽ bắt chuyến tàu Frontier Mail. Núi non quần tụ lại dõi theo ông tôi rời khỏi nhà lần cuối. (Ông sẽ trở về, một lần, nhưng không phải để ra đi.) Aziz nghĩ mĩnh đã trông thấy một người lái đò già nua đứng nhìn theo họ - nhưng có lẽ anh nhầm, vì Tai đang ốm. Nốt rộp hình ngôi đền trên đỉnh đồi Sankara Acharya, mà tín đồ đạo Hồi vẫn quen gọi là Takht-e-Sulaiman, hay Ngai vàng của Solomon, chẳng hề để tâm tới họ. Từng hàng dương mùa đông trụi lá và những cánh đồng nghệ tuyết phủ dậy sóng quanh họ khi cỗ xe chạy về phía Nam, với một chiếc cặp da cũ đựng, ngoài nhiều thứ khác, một cái ống nghe và một tấm ga giường, nhét trong cốp xe. Bác sĩ Aziz cảm thấy, tự đáy lòng, một cảm giác gần như không trọng lượng.
[2] King’s Evil, hay Scrofula: bệnh tràng nhạc. Thời Trung cổ người ta tin rằng bệnh này nếu được nhà vua sờ vào thì sẽ khỏi.
Hay đang rơi.
(... Và bây giờ tôi bị bắt đóngcon ma. Tôi lên chín và cả gia đình, bố tôi, mẹ tôi, con Khỉ Đồng và tôi, đang ở nhà ông bà ở Agra, và lũ cháu – trong đó có tôi - đang dàn dựng vở kịch Năm Mới theo truyền thống; và tôi bị bắt đóng con ma. Bởi vậy - và để giữ bí mật cho vở diễn nghiệp dư sắp tới - tôi sục sạo khắp nhà tìm hóa trang cho con ma. Ông tôi ra ngoài thăm bệnh. Tôi đang ở phòng ông. Và đây trên nóc tủ là một cái rương cũ, phủ đầy bụi và nhện, nhưng khôngkhóa. Và đây, ở trong, là câu trả lời cho lời cầu nguyện của tôi. Không chỉ một tấm ga, mà là một tấm ga đã khoét lỗ sẵn! Nó đây rồi, bên trong chiếc cặp da ở trong cái rương, dưới cái ống nghe cũ và tuýp thuốc xịt hiệu Vicks mốc meo... sự xuất hiện của tấm ga tại vở diễn không khác gì một cú sốc. Ông tôi vừa thấy nó đã chồm dậy và gầm lên. Ông sải bước lên sân khấu và lột áo ma của tôi ngay trước mắt mọi người. Môi bà tôi mím chặt đến mức chúng cơ hồ biến mất. Giữa họ với nhau, một gầm lên với tôi bằng giọng của người lái đò bị lãng quên, một thể hiện cơn giận dữ bằng đôi môi tan biến, họ đã biến con ma đáng sợ thành một mớ bèo nhèo thút thít. Tôi bỏ trốn, cúp đuôi chạy ra mảnh ruộng ngô nhỏ, không hiểu điều gì vừa xảy ra. Tôi ngồi đó - có lẽ đúng ngay chỗ Nadir Khan từng ngồi! - mấy tiếng liền, thề sống thề chết không bao giờ mở một cái rương cấm nữa, và mơ hồ cảm thấy ấm ức vì nó không được khóa ngay từ đầu. Nhưng từ cơn thịnh nộ của họ, tôi biết rằng tấm ga, vì lẽ gì đó, thật sự rất quan trọng.)
Tôi bị Padma làm gián đoạn, cô đem bữa tối đến rồi giữ lại, tống tiền tôi: “Nếu anh định vùi đầu nguệch ngoạc cho hỏng mắt thì ít nhất anh cũng phải đọc cho tôi nghe.” Tôi trước nay luôn tự đàn hát kiếm cơm - nhưng biết đâu Padma của chúng ta sẽ có ích, vì không gì cản nổi cô đóng vai nhà phê bình. Cô đặc biệt giận dữ trước nhận xét của tôi về tên mình. “Anh thì biết gì, cậu ấm?” cô quát - huơ tay chém gió. “Ở làng tôi chẳng việc gì phải xấu hổ nếu được đặt tên theo Bà Chúa Phân sất. Viết ngay là anh sai cho tôi, sai lè ra ấy.” Thể theo ý nguyện của bông sen của tôi, tôi xin bổ sung, không chút chậm trễ, một khúc tụng ca ngắn về Phân.
Phân, thứ làm đất đai màu mỡ và mùa màng sinh sôi! Phân, thứ được ép thành bánh mỏng như chapati[3] từ lúc còn tươi và ướt, rồi mang bán cho các hiệp thợ nề để họ đem trát và gia cố tường những ngôi nhà kiểu kachcha[4] xây từ bùn! Phân, ra đời từ phần hậu thấp kém của gia súc, đã đi một chặng đường dài để xác lập vị thế linh thiêng và thần thánh của mình! Phải rồi, tôi sai, tôi thừa nhận mình có định kiến, chắc chắn rồi, vì cái mùi đen đủi ấy quả tình rất dễ làm tổn thương cái mũi nhạy cảm của tôi - hẳn là tuyệt vời xiết bao, đáng yêu biết dường nào khi được mang tên của Đấng Ban Phân!
[3] Một loại bánh mì không men hình tròn và dẹt của Ấn Độ.
[4] Kiểu kiển trúc đặc trưng của Ấn Độ, sử dụng những vật liệu tự nhiên như bùn, tre, gỗ, cỏ.
... Ngày 6 tháng Tư năm 1919, thánh địa Amritsar sực nức (rất huy hoàng, Padma, rất thần tiên!) hương phân. Và có lẽ cái nồng nàn (diễm tuyệt!) ấy không hề làm Cái Mũi trên mặt ông tôi khó chịu - nói cho cùng, nông dân Kashmir vẫn dùng nó, như một thứ vữa, như tôi đã tả ở trên. Ngay ở Srinagar, hình ảnh những người bán rong đẩy xe ba gác chở phân bánh cũng không có gì xa lạ. Nhưng phân ấy khô, hết mùi, hữu ích. Phân ở Amritsar tươi và (tệ hơn) thừa mứa. Mà không phải toàn phân bò. Nó rơi xuống từ mông lũ ngựa đi giữa càng xe của vô số tonga, ikka và gharry[5] của thành phố; từ những la những người những chó đi theo tiếng gọi của tự nhiên, chan hòa trong tình huynh đệ của cứt. Nhưng cũng có cả bò: đàn bò thiêng lang thang trên phố xá bụi mù, từng con tuần tra lãnh thổ của mình, đánh dấu chủ quyền bằng phân. Và ruồi! Kẻ Thù Số Một Của Cộng Đồng, hoan hỉ vo ve từ đống cứt này sang đống cứt nóng hổi khác, ăn mừng và thụ phấn chéo cho những tặng vật biếu không ấy. Cả thành phố cũng nhộn nhạo, phản chiếu chuyển động của lũ ruồi. Bác sĩ Aziz đang từ cửa sổ khách sạn nhìn xuống khung cảnh ấy khi một tin đồ Kỳ Na giáo đeo khẩu trang đi qua, cầm cây chổi xể quét vỉa hè trước mặt để khỏi giẫm phải một con kiến, hay một con ruồi. Từng làn khói thơm cay bốc lên từ một xe quà vặt. “Pakora nóng, pakora nóng đây!” Một phụ nữ da trắng đang hỏi mua lụa ở cửa hiệu bên kia đường, và mấy gã đàn ông đội khăn xếp đang liếc mắt tống tình cô ả. Naseem - giờ là Naseem Aziz - đang đau đầu ghê gớm; đây là lần đầu tiên cô tái phát một chứng bệnh, nhưng cuộc sống ngoài cái thung lũng bình lặng của cô đã ập tới như một cú sốc với cô. Đầu giường cô để một bình nước chanh tươi, cạn đi rất mau. Aziz đứng bên cửa sổ, hít thành phố vào lồng ngực. Ngọn tháp của Đền Vàng lóe sáng dưới ánh mặt trời. Nhưng mũi anh đang ngứa: có gì không ổn ở đây.
[5] Ba loại xe ngựa kéo phổ biến ở Ấn Độ.
Cận cảnh bàn tay phải ông tôi: móng tay đốt tay ngón tay đều ít nhiều lớn hơn người ta tưởng. Dăm túm lông đỏ ở mặt trên ngón tay. Ngón cái và ngón trỏ kẹp sát nhau, chỉ bị ngăn cách bởi độ dày của một tờ giấy. Tóm lại: ông tôi đang cầm một tờ truyền đơn. Nó vừa được dúi vào tay ông (ta nhảy sang viễn cảnh - dân Bombay ai cũng có vốn từ vựng cơ bản về điện ảnh) lúc ông bước vào sảnh khách sạn. Một thằng oắt thoăn thoắt phóng qua cánh cửa quay, truyền đơn lả tả phía sau, gã chaprassi[6] đuổi theo. Từng vòng quay điên cuồng quanh cánh cửa, vòng nối vòng; tới khi bàn tay gã chaprassi cũng đòi được cận cảnh, bởi ngón cái ngón trỏ đang kẹp sát nhau, chỉ ngăn cách bởi độ dày của tai thằng oắt. Kẻ gieo rắc rác rưởi vị thành niên bị tống khứ; nhưng ông tôi đã giữ lại bức thông điệp. Lúc này, nhìn ra cửa sổ, ông thấy nó được vọng lại trên bức tường đối diện; và ở kia, trên ngọn tháp thánh đường; và dưới dạng chữ in khổ lớn trên tờ báo kẹp dưới nách một người bán rong. Truyền đơn báo chí thánh đường tường nhà đang hét lớn: Hartal! Mà, theo nghĩa đen, là một ngày của khóc thương, của bất động, của im lặng. Nhưng đây là Ấn Độ trong buổi hoàng kim của Mahatma, khi ngôn ngữ cũng phục tùng mệnh lệnh của Gandhiji, và từ này, dưới tác động của ông, đã mang những âm hưởng mới. Hartal - 7 tháng Tư, thánh đường báo chí bức tường và truyền đơn đều hưởng ứng, bởi Gandhi đã ra sắc lệnh rằng cả Ấn Độ, ngày hôm ấy, sẽ ngừng hoạt động. Để khóc thương, trong hòa bình, sự tiếp tục hiện diện của người Anh.
[6] Nhân viên gác cổng khách sạn.
“Em chẳng hiểu tại sao lại hartal khi không ai chết cả,” Naseem khóc tỉ tê. “Sao tàu không chạy? Mình còn kẹt ở đây bao lâu?”
Bác sĩ Aziz thấy một thanh niên dáng dấp nhà binh trên đường, và nghĩ - người Ấn đã chiến đấu cho người Anh; rất nhiều trong số họ đã đi khắp thế giới, và bị Ngoại quốc tiêm nhiễm. Họ sẽ không dễ dàng quay về thế giới cũ. Người Anh đã lầm khi định quay ngược thời gian. “Thông qua Đạo luật Rowlatt là một sai lầm,” anh lẩm bẩm.
“Rowlatt gì ?” Naseem rền rĩ. “Chẳng có ý nghĩa gì với em hết!”
“Cấm vận động chính trị,” Aziz giải thích, rồi trở lại với suy nghĩ của anh. Tai từng nói: “Dân Kashmir khác. Mấy thằng hèn chẳng hạn. Nhét súng vào tay một gã Kashmir, nó sẽ phải tự nổ - không đời nào gã dám bóp cò. Ta khác dân Ấn, luôn gây chiến.” Aziz, với Tai trong đầu, không thấy mình Ấn Độ. Kashmir, nói cho cùng, nếu khắt khe mà xét thì không phải một bộ phận của Đế chế, mà là một tiểu quốc độc lập. Anh không chắc cuộc hartal của truyền đơn thánh đường tường nhà báo chí này là cuộc chiến của mình, dù anh đang đứng trên vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Anh quay đi khỏi cửa sổ...
... Và thấy Naseem khóc tỉ tê trên gối. Cô bắt đầu sùi sụt từ khi anh bảo cô, vào đêm thứ hai, nắc đi một tí. “Nắc gì?” cô hỏi. “Nắc sao?” Anh lúng túng nói, “Thì nắc thôi, tức là, như đàn bà ấy...” Cô rú lên kinh hãi. “Trời ơi, tôi lấy phải gì thế này? Tôi biết bọn đàn ông đi Tây về các anh. Các anh gặp những ngữ đàn bà gớm ghiếc rồi bắt chúng tôi bắt chước! Nghe này, Bác sĩ Sahib, có chồng hay không chồng, tôi cũng không phải hạng đàn bà... chẳng ra gì.” Đây là một trận chiến mà ông tôi không bao giờ thắng; và nó định tông cho cuộc hôn nhân giữa họ, điều sẽ mau chóng trở thành một địa điểm nổ ra chiến sự thường xuyên và khốc liệt, dưới sự tàn phá của nó cô thiếu nữ sau tấm ga và chàng Bác sĩ trẻ vụng về nhanh chóng biến thành những sinh vật khác biệt, xa lạ... “Gì nữa đây mình?” Aziz hỏi. Naseem vùi mặt vào gối. “Còn gì nữa?” giọng cô tắc nghẹn, “Anh, chứ còn gì nữa? Anh muốn tôi trần truồng đi lại trước mặt đàn ông lạ.” (Anh ấy bảo cô bỏ đeo mạng che mặt.)
Anh bảo, “Áo mình phủ kín người mình từ cổ đến tay đến gối. Quần mình che người mình tới tận mắt cá chân. Chỉ còn có bàn chân và mặt. Mình nói xem, mặt và chân mình là tục tĩu à?” Nhưng cô rền rĩ, “Họ sẽ thấy nhiều hơn thế, họ sẽ thấy nỗi nhục nhã ê chề ê chề của tôi!”
Và giờ một tai nạn, nó sẽ phóng chúng ta vào thế giới của Mercurochrome... Aziz, bắt đầu mất bình tĩnh, lôi sạch mạng che mặt của vợ trong va li ra, ném vào cái thùng tôn đựng rác sơn hình Guru Nanak bên hông, rồi châm lửa. Ngọn lửa bùng lên, làm anh bất ngờ, liếm vào tấm rèm. Aadam chạy bổ ra cửa kêu cứu trong khi tấm rèm rẻ tiền bắt lửa... và người hầu khách trọ thợ giặt đổ xô vào phòng, lấy giẻ lau khăn tắm và quần áo của khách đập bồm bộp lên chỗ vải đang cháy. Nước được xách đến; lửa được dập tắt; và Naseem co rúm ở trên giường trong khi độ ba mươi lăm người Sikh, Hindu và tiện dân chen chúc trong căn phòng đầy khói. Sau cùng họ bỏ đi, và Naseem buông ra hai câu trước khi mím chặt môi lại đầy bướng bỉnh.
“Anh là đồ điên. Cho tôi thêm nước chanh.”
Ông tôi mở cửa sổ, quay lại người vợ trẻ. “Khói phải một lúc nữa mới tan hết; tôi đi dạo một chút. Mình có đi không?”
Môi mím chặt; mắt nhắm tịt; một chữ Không quyết liệt từ cái đầu; thế là ông tôi đi ra phố một mình. Với câu chốt hạ: “Quên chuyện làm một cô gái Kashmir ngoan ngoãn đi. Hãy nghĩ đến việc làm một phụ nữ Ấn Độ hiện đại.”
... Trong khi tại khu Doanh trại, ở Tổng hành dinh của Quân đội Anh, một viên Chuẩn tướng R.E. Dyer đang vuốt sáp lên râu.
Hôm đó là ngày 7 tháng Tư năm 1919, và tại Amritsar ý tưởng lớn lao của Mahatma đang bị bóp méo. Hàng quán đã nghỉ; nhà ga đã đóng; nhưng giờ đây chúng bị đám đông bạo loạn phá tan tành. Bác sĩ Aziz, tay xách cặp da, đang ở ngoài phố, giúp được chỗ nào là giúp. Những nạn nhân bị giẫm đạp bị bỏ lại ngay chỗ họ ngã xuống. Anh băng bó các vết thương, phết bừa Mercurochrome lên đó, khiến chúng nhìn máu me hơn bao giờ hết, nhưng ít nhất cũng đượcsát trùng. Cuối cùng anh trở về khách sạn, quần áo sũng đỏ bê bết, và Naseem phát hoảng lên. “Để em giúp, để em giúp, lạy đấng Allah, con lấy phải ai thế này, ra đầu đường xó chợ đánh lộn với lũ côn đồ!” Cô xoắn xuýt quanh anh với mấy nùi bông thấm nước. “Em chẳng hiểu sao mình không thể làm một anh bác sĩ đàng hoàng như người ta chỉ chữa những bệnh quan trọng các thứ thôi. Chúa ơi người mình toàn máu thôi! Yên, yên nào, ít nhất cũng để em rửa cho đã!”
“Không phải máu đâu, mình.”
“Mình tưởng em không biết tự nhìn đấy hẳn? Sao lúc bị thương mình cũng cứ phải giễu em thế? Vợ mình cũng không được săn sóc cho mình à?”
“Đấy là Mercurochrome, Naseem. Thuốc đỏ.”
Naseem - người vừa biến thành một cơn lốc hành động, nhặt quần áo, vặn vòi nước - khựng lại. “Anh cố tình làm thế,” cô nói “để biến tôi thành con ngốc. Tôi không ngốc đâu. Tôi cũng đọc mấyquyển sáchrồi đấy.”
Hôm đó là 13 tháng Tư, và họ vẫn kẹt lại Amritsar. “Vụ này chưa xong đâu,” Aadam Aziz bảo Naseem. “Ta không thể đi được, mình thấy đấy: có thể họ sẽ lại cần bác sĩ.”
“Nghĩa là ta phải chờ ở đây đến ngày tận thế à?”
Anh dụi mũi. “Không, không lâu đâu, tôi e rằng không.”
Chiều hôm đó, đường phố bỗng đông nghịt người, tất cả đi về một hướng, bất chấp lệnh Thiết quân luật mới ban bố của Dyer, Aadam bảo Naseem, “Chắc sắp có mít tinh - thể nào cũng gặp rắc rối với quân đội. Họ đã có lệnh cấm mít tinh.”
“Sao mình lại phải đi? Sao không đợi người ta gọi ?”
... Một compound[7] có thể là bất cứ chỗ nào, từ bãi đất hoang cho đến công viên. Compound lớn nhất Amritsar có tên là Jallianwala Bagh. Ở đây ít cỏ. Mặt đất đầy sỏi đá chai lọ và các thứ khác. Muốn vào được đây, người ta phải đi qua một con hẻm rất hẹp giữa hai tòa nhà. Vào ngày 13 tháng Tư, hàng nghìn người Ấn Độ lũ lượt kéo vào con hẻm này. “Phản đối trong hòa bình” ai đó bảo Bác sĩ Aziz. Bị cuốn theo dòng người, anh đi tới đầu hẻm. Chiếc cặp đến từ Heidelberg trên tay phải. (Không cần phải cận cảnh.) Ông đang rất sợ hãi, tôi biết, vì mũi ông đang ngứa dữ dội hơn bao giờ hết; nhưng ông là một bác sĩ đã qua đào tạo, ông gạt nó ra khỏi đầu, rồi tiến vào compound. Ai đó đang diễn thuyết rất hăng say. Những người bán rong len lỏi giữa đám đông mời chào channa và của ngọt. Không khí đầy bụi. Xem ra sẽ không có bọn côn đồ hay phá hoại, ít ra là ông tôi không thấy. Một nhóm người Sikh trải một mảnh vải ra đất và đang quây quần ăn uống. Không khí vẫn có mùi phân. Aziz đi xuyên vào trung tâm đám đông, đúng lúc Chuẩn tướng R.E. Dyer xuất hiện ở lối vào con hẻm, theo sau là năm mươi binh sĩ ưu tú. Ông ta là Chỉ huy Thiết quân luật ở Amritsar - một nhân vật quan trọng, nói gì thì nói; hai chỏm râu chuốt sáp cứng đơ lên đầy quan trọng. Đúng lúc năm mươi mốt người tiến vào trong hẻm, một cơn buồn thay thế cơn ngứa ở mũi ông tôi. Năm mươi mốt người tiến vào compound và chiếm lĩnh các vị trí, hai lăm bên phải Dyer và hai lăm bên trái; và Aadam Aziz ngừng tập trung vào những sự kiện xung quanh khi cơn ngứa lên đến đỉnh điểm không chịu nổi. Đúng lúc Chuẩn tướng Dyer phát lệnh, cú hắt xì táng thẳng vào mặt ông. “Hắắt – xììììì!” ông hắt xì hơi và cắm người ra trước, mất thăng bằng, lao theo cái mũi và nhờ đó thoát chết. “Hành trang bác sĩ” của ông xổ tung ra; chai lọ, dầu xoa bóp và xyranh tung tóe trong đám bụi. Ông điên cuồng sờ soạng dưới chân người ta, cố cứu lấy chỗ dụng cụ trước khi chúng bị giẫm nát. Một tiếng ồn như răng gõ lập cập khi trời rét vang lên, có người ngã đè lên ông. Màu đỏ ướtđẫm áo ông. Có tiếng la thét và kêu khóc và tiếng lập cập kỳ quái nọ lại tiếp tục. Dường như càng lúc càng nhiều người ngã chồng lên ông tôi. Ông bắt đầu lo cho cái lưng mình. Cái khóa cặp đang đục lõm ngực ông, gây ra một vết bầm tím nghiêm trọng và bí hiểm đến mức nó sẽ không tan đến tận sau khi ông chết, nhiều năm sau, trên đồi Sankara Acharya hay Takht-e-Sulaiman. Mũi ông gí sát một lọ thuốc viên màu đỏ. Tiếng lập cập ngừng lại và thay bằng tiếng ồn của người và chim. Dường như không hề có tiếng ồn của xe cộ. Năm mươi người của Chuẩn tướng Dyer hạ súng máy xuống rồi rút đi. Họ đã bắn tổng cộng một nghìn sáu trăm năm mươi phát vào đám đông không vũ khí. Trong đó, một nghìn năm trăm mười sáu đã trúng đích, giết hoặc làm bị thương ai đó. “Bắn oách lắm,” Dyer bảo người của mình, “ta vừa làm một việc cực oách.”
[7] Một khu đất rộng có tường hoặc rào vây quanh. Đây là một nghĩa đặc thù của từ này ở Ấn Độ.
Khi ông tôi trở về đêm đó, bà tôi đang rất cố gắng làm một phụ nữ hiện đại, vì thế bà không tỏ vẻ gì khi thấy ông. “Xem ra mình lại đánh đổ Mercurochrome nữa rồi, vụng về ạ,” bà nói, giọng làm lành.
“Máu đấy,” ông đáp, và bà ngất xỉu. Khi ông làm bà tỉnh lại với sự trợ giúp từ một chút muối ngửi, bà hỏi, “Mình có sao không?”
“Không,” ông đáp.
“Nhưng mình vừa ở đâu thế, lạy Chúa?”
“Không ở mặt đất này,” ông đáp, và run lên trong vòng tay bà.
Bàn tay tôi, tôi xin thú thực, bắt đầu lẩy bẩy; không hẳn vì câu chuyện của nó, mà vì tôi nhận thấy một vết nứt mảnh, như sợi tóc, vừa xuất hiện trên cổ tay tôi, bên dưới lớp da... Có hề gì. Chúng ta đểu nợ cái chết một mạng. Vì thế tôi xin phép kết thúc bằng một tin đồn chưa kiểm chứng rằng lão lái đò Tai, người đã khỏi bệnh nhiễm trùng tràng nhạc không bao lâu sau khi ông tôi rời Kashmir, không chết cho đến năm 1947, khi mà (vẫn theo lời đồn), điên tiết vì Ấn Độ và Pakistan tranh giành thung lũng của mình, lão đến Chhamb với ý định cụ thể là đứng giữa hai phe đối địch và nói cho chúng biết mặt. Kashmir củadân Kashmir: đấy là lời lão. Cố nhiên, họ bắn lão. Oskar Lubin hẳn đã tán thànhcử chỉ hùng hồn của lão; R.E. Dyer hẳn đã tán dương tài thiện xạ của những kẻ sát hại lão.
Tôi phải đi ngủ. Padma đang chờ, và tôi cần chút hơi ấm.
Chương 3: Phụt-ống-nhổ
Xin hãy tin rằng tôi đang tan rã.
Tôi không nói câu này theo nghĩa bóng; và đây cũng không phải khúc dạo đầu của một màn cầu xin lòng thương hại cải lương, bí hiểm, trơ trẽn. Tôi chỉ giản đơn muốn nói rằng người tôi đang nứt rạn khắp nơi như một chiếc bình cũ - rằng cái cơ thể khốn khổ của tôi, kỳ quặc, khó thương, phải nếm chịu quá nhiều lịch sử, bị hút kiệt ở trên và hút kiệt ở dưới, bị cửa làm tàn khuyết, bị ống nhổ tẩy não, đã bắt đầu bung ra theo những đường may. Tóm lại, tôi đang phân rã theo đúng nghĩa, hiện giờ vẫn chậm, tuy có dấu hiệu nhanh dần. Tôi chỉ xin quý vị chấp nhận (giống như tôi đã chấp nhận) một điều là chung cuộc tôi sẽ vỡ vụn thành (ước chừng) sáu trăm ba mươi triệu hạt bụi vô danh, tất yếu sẽ bị lẵng quên. Đây chính là lý do khiến tôi quyết tâm ký thác tất thảy lên giấy, trước khi tôi quên. (Chúng ta là một dân tộc của những kẻ lãng quên.)
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian